Tiểu sử Wojciech Kilar

Wojciech Kilar được sinh vào ngày 17 tháng 7 năm 1932 tại Lwów (lúc đó là Ba Lan; kể từ năm 1945 Lviv ở Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Ukraina, nay là Ukraina).[4] Cha ông là một bác sĩ phụ khoa và mẹ ông là một nghệ sĩ kịch. Từ năm 1948, Kilar dành phần lớn cuộc đời của mình sống tại thành phố Katowice ở miền Nam Ba Lan, kết hôn (từ tháng 4 năm 1966 đến tháng 11 năm 2007) với Barbara Pomianowska, một nghệ sĩ piano.[5] Kilar khi đó 22 tuổi đã gặp Barbara, 18 tuổi, cũng là người vợ tương lai của mình.[6]

Học vấn

Sau khi học xong piano tại Maria Bilińska-Riegerowa và hòa âm ở Artur Malawski, năm 1948, ông chuyển từ Kraków đến Katowice, học xong trung học trong lớp học nhạc của Władysława Markiewiczówna. Sau đó, ông đến trường Đại học Âm nhạc (nay là Học viện âm nhạc) ở Katowice, nơi ông tiếp tục học piano và kĩ năng soạn nhạc từ người thầy Bolesław Woytowicz. Ông tốt nghiệp với tấm bằng danh dự loại xuất sắc và nhận bằng tốt nghiệp năm 1955 [7] Thời gian sau, ông tiếp tục học cao học tại Đại học âm nhạc quốc gia (nay là Học viện Âm nhạc) tại Kraków từ năm 1955 đến năm 1958. Trong năm 1957, ông tham gia khóa học hè âm nhạc mới quốc tế tại Darmstadt. Vào năm 1959, ông giành được một học bổng của chính phủ Pháp, giúp ông có cơ hội được học thêm về sáng tác nhạc với giảng viên Nadia BoulangerParis.[4]

Sự nghiệp âm nhạc

Wojciech Kilar, ngày 28 tháng 10 năm 2005

Kilar (cùng với Bolesław Szabelski, học sinh của anh Henryk Górecki và Krzysztof Penderecki) chịu sự ảnh hưởng của phong trào Avant--gardene trong thập niên 60,[8] đôi khi được gọi là Trường phái Ba Lan mới. Năm 1977, Kilar là một trong những thành viên sáng lập Hiệp hội Karol Szymanowski, đặt trụ sở tại thị trấn miền núi Zakopane. Kilar đã lãnh đạo Hiệp hội các nhà soạn nhạc Ba Lan trong nhiều năm. Từ năm 1979-1981, ông là phó chủ tịch hội đồng quốc gia của hiệp hội này. Ông cũng là thành viên của Ủy ban chỉ đạo tiết mục cho Liên hoan âm nhạc đương đại quốc tế "Mùa thu Warsaw". Năm 1991, nhà làm phim người Ba Lan Krzysztof Zanussi đã thực hiện một bộ phim tiểu sử về ông với tựa đề Wojciech Kilar.

Nhận được thành công to lớn với vai trò là nhà soạn nhạc cổ điển, Kilar đã ghi dấu ấn với bộ phim nội địa đầu tiên của mình vào năm 1959, và tiếp tục viết nhạc cho một số đạo diễn nổi tiếng nhất của Ba Lan, bao gồm Krzysztof Kieślowski, Krzysztof Zanussi, Kazimierz KutzAndrzejaj. Ông đã phụ trách mảng âm nhạc với hơn 100 bộ phim tại quê nhà, bao gồm các bộ phim được quốc tế công nhận như Bilans Kwartalny (1975), Spirala (1978), Constans (1980), Imperativ (1982), Rok Spokojnego Słońca (1984) và ycie za ycie (1984) 1991), cộng với một số bộ khác ở Pháp và trên các khu vực khác của Châu Âu. Ông làm việc với bản chuyển thể Dracula của Francis Ford Coppola, sử dụng tiếng Anh để ra mắt công chúng thế giới. Các bộ phim bằng tiếng Anh khác của ông - bộ ba Death Polanski 's Death and the Maiden (1994), The Ninth Gate (1999) và The Pianist (2002), và Jane Campion's Portrait of a Lady (1996) - các bộ phim đều mang đặc trưng riêng với cách mài basscellos xen lẫn chủ đề lãng mạn sâu sắc và hợp âm mang phong cách tối giản.

Ngoài các tác phẩm điện ảnh của mình, Kilar tiếp tục viết và xuất bản các bản nhạc cổ điển thuần túy, bao gồm một bản sonata, một bản nhạc cho một nhóm nhạc gió năm người, cùng một vài bản nhạc cho dàn nhạc thính phòng và dàn hợp xướng, Bên cạnh đó, còn có ca khúc Baltic nổi tiếng, sử thi Exodus (cũng nổi tiếng như đoạn nhạc trailer từ Danh sách của Schindler và nhạc nền Hiệp sĩ ly của Terrence Malick), Bản hòa tấu cho Piano và dàn nhạc dành riêng cho Peter Jablonski, và tác phẩm chính của ông, Bản giao hưởng tháng 9 (2003).[8]

Sau khi từ chối hoàn toàn việc sử dụng kỹ thuật Avant-gardene trong âm nhạc, ông tiếp tục sử dụng một ngôn ngữ âm nhạc được đơn giản hóa, trong đó các khối âm thanh khá lớn làm nền để làm nổi bật lên các giai điệu. Điều này có thể nhìn thấy trong những tác phẩm tham khảo âm nhạc dân gian (đặc biệt là giai điệu dân gian Ba Lan Highlander Gorals) cùng với lòng yêu nước và tôn giáo.

Sự ra đi sau những ngày bệnh tật

Trong mùa hè năm 2013, Kilar có các dấu hiệu cho thấy sức khỏe ông đang giảm sút nghiêm trọng, chẳng hạn như ngất xỉu và tăng huyết áp, nhưng ông lại quy những triệu chứng đó cho các vấn đề về tim mạch. Tuy nhiên, vào tháng 9, ông đã bị ngã khi đang trên đường. Ông được đưa vào bệnh viện, nơi ông được chẩn đoán mắc bệnh u não, mặc dù tin tức về căn bệnh của ông chỉ được công bố sau khi ông qua đời. Ông đã trải qua một cuộc phẫu thuật thành công để loại bỏ khối u và không gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng nào. Sau ca phẫu thuật, Kilar rất lạc quan và tiếp tục làm việc bình thường.[9] Ngoài ra, ông còn phải trải qua xạ trị trong sáu tuần, một quá trình khiến ông kiệt sức về thể chất.[10][11][12]

Đầu tháng 12 năm 2013, Kilar rời bệnh viện để trở về nơi cư trú ở Katowice. Vì không có con nên ông được cháu gái chăm sóc.[12] Ông cũng thường xuyên được một linh mục Công giáo đến thăm và rước lễ hai lần trong mùa Giáng sinh. Tình trạng của ông xấu đi vào ngày 28 tháng 12 và đến sáng Chủ nhật, ngày 29 tháng 12 năm 2013, Kilar qua đời.[10] Sau khi hỏa táng thi hài của ông, đám tang của Kilar được tổ chức vào ngày 4 tháng 1 năm 2014 tại Nhà thờ Chúa Kitô Vua ở Katowice. Tro cốt của ông được đặt bên cạnh người vợ của mình.[13]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Wojciech Kilar http://nl.newsbank.com/nl-search/we/Archives?p_pro... http://www.academie-cinema.org/en/ceremony/awards.... http://awards.bafta.org/award/2003/film/the-anthon... http://adonai.pl/muzyka/?id=39 http://culture.pl/en/artist/wojciech-kilar http://www.culture.pl/en/culture/artykuly/os_kilar... http://www.culture.pl/web/english/resources-music-... http://katowice.gazeta.pl/katowice/1,35063,1519815... http://katowice.gazeta.pl/katowice/1,35063,1519918... http://www.idziemy.pl/kultura/od-pol-roku-kilar-zm...